Thiết kế Moltke_(lớp_tàu_chiến-tuần_dương)

Tàu chiến-tuần dương Goeben

Các đặc tính chung

Những chiếc trong lớp Moltke có chiều dài chung 186,6 m (612 ft), mạn thuyền rộng 29,4 m (96 ft), và độ sâu của mớn nước là 9,19 m (30,2 ft) khi đầy tải nặng. Trọng lượng choán nước của các con tàu thông thường là 22.979 tấn (22.979 t), và lên đến 25.400 tấn (25.400 t) khi đầy tải nặng.[2] Những con tàu có 15 ngăn kín nước và một đáy kép kéo dài 78% chiều dài lườn tàu. Chúng được xem là dễ điều khiển, vận hành nhẹ nhàng ngay cả khi biển động. Tuy nhiên chúng phản ứng chậm với việc bẻ lái và không thật cơ động. Con tàu mất cho đến 60% tốc độ và nghiêng đến 9° khi bẻ hết lái.[Ghi chú 4] Con tàu có một thủy thủ đoàn tiêu chuẩn gồm 43 sĩ quan và 1010 thủy thủ. Khi Moltke phục vụ như soái hạm của Đội Tuần tiễu 1, nó được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 62 thủy thủ; còn khi hoạt động như tàu chỉ huy thứ hai, nó nhận thêm 3 sĩ quan và 25 thủy thủ so với biên chế thông thường.[8]

Hệ thống động lực

Moltke và Goeben được cung cấp động lực bởi bốn trục turbine hơi nước Parson sắp xếp thành hai bộ, và hơi nước được cung cấp bởi 24 nồi hơi Schulz-Thornycroft đốt than chia thành bốn phòng nồi hơi.[1] Các nồi hơi cấu tạo gồm một bồn hơi nước và ba bồn nước,[2] tạo ra hơi nước ở áp lực 16 atmôtphe chuẩn (240 psi). Sau năm 1916, các nồi hơi được hỗ trợ bằng việc phun hắc ín.[Ghi chú 5] Bộ turbine Parson được chia thành các cặp áp lực cao và áp lực thấp:[2] turbine áp lực thấp dẫn động các trục phía trong được đặt ở phòng động cơ phía sau, còn các turbine áp lực cao bố trí hai bên và được đặt ở phòng động cơ phía trước. Chúng dẫn động bốn chân vịt có đường kính 3,74 m (12,3 ft).[9]

Hệ thống động lực của các con tàu cung cấp công suất 52.000 shp (39 MW), và đạt đến tốc độ tối đa 25,5 kn (47,2 km/h). Tuy nhiên khi chạy thử máy, Moltke đạt đến 85.782 shp (63,968 MW) và có tốc độ tối đa 28,4 kn (52,6 km/h). Goeben có công suất và tốc độ tối đa thấp hơn đôi chút.[6] Các con tàu được thiết kế để mang theo 1.000 tấn than, mặc dù trong thực tế chúng chứa đến 3.100 tấn. Sức tiêu thụ nhiên liệu trong sáu giờ chạy thử máy ở tốc độ tối đa là 0,667 kg than/giờ cho mỗi mã lực ở công suất 76.795 shp (57,266 MW), và 0,712 kg than/giờ cho mỗi mã lực ở công suất 71.275 shp (53,150 MW) đối với cả hai con tàu.[9] Ở tốc độ đường trường 14 kn (26 km/h), các con tàu có tầm hoạt động 4.120 nmi (7.630 km).[2] Lớp Moltke được trang bị 6 máy phát điện turbine cung cấp công suất 1.200 kW (1.600 hp) ở hiệu điện thế 225 volt.[2]

Vũ khí

Tháp pháo phía trước mũi của Moltke

Dàn pháo chính của lớp bao gồm mười khẩu pháo SK 28 cm (11 in) L/45[Ghi chú 6] đặt trên năm tháp pháo nòng đôi. Các khẩu pháo được đặt trên bệ kiểu Drh.L C/1908, có thể nâng cho đến góc 13,5°.[1] Góc nâng này ít hơn 7,5° so với chiếc Von der Tann trước đó, và vì thế có tầm bắn tối đa ngắn hơn đôi chút, chỉ đạt 18.100 m (19.800 yd) thay vì 18.900 m (20.700 yd) như trên chiếc Von der Tann. Vào năm 1916, trong một đợt tái trang bị, góc nâng của các khẩu pháo được tăng lên 16° giúp nâng tầm bắn tối đa lên 19.100 m (20.900 yd).[6] Một tháp pháo, tên Anton, được đặt phía trước; hai tháp pháo được bố trí phía sau, trong đó Dora bắn thượng tầng so với Emil, còn hai tháp pháo Bruno và Cäsar được đặt so le giữa tàu. Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo xuyên thép và đạn bán xuyên thép, cả hai đều nặng 302 kg (666 lb), được bắn với tốc độ 3 phát mỗi phút với lưu tốc đầu đạn 895 m/s (2.940 ft/s). Có tổng cộng 810 quả đạn pháo được chứa trên tàu.[1]

Dàn pháo hạng hai của các con tàu bao gồm mười hai khẩu pháo SK 15 cm (5,9 in) L/45 đặt trên các bệ MPL C/06 bố trí trong các tháp pháo ụ như trên chiếc Von der Tann. Có tổng cộng 1.800 quả đạn pháo được mang theo, mỗi khẩu được cung cấp 150 quả. Pháo 15 cm có tầm bắn xa 13.500 m (14.800 yd) vào lúc chế tạo, nhưng sau này được nâng lên 16.800 m (18.400 yd).[1] Thoạt tiên, tám khẩu pháo SK 8,8 cm (3,5 in) L/45 cũng được trang bị nhằm mục đích tự vệ chống lại các tàu phóng lôitàu khu trục, nhưng sau đó được tháo dỡ, với các khẩu phía sau cấu trúc thượng tầng được thay thế bẳng bốn khẩu 8,8 cm L/45 phòng không.[6]

Giống như mọi tàu chiến chủ lực vào thời đó, Moltke và Goeben cũng được trang bị bốn ống phóng ngư lôi 50 cm (20 in) với tổng cộng 11 quả ngư lôi. Chúng được bố trí trước mũi, sau đuôi và hai bên mạn tàu. Kiểu ngư lôi G/7 nàycó trọng lượng 1.365 kg (3.009 lb), mang đầu đạn nặng 195 kg (430 lb), và có tầm bắn hiệu quả 9.300 m (10.200 yd) khi cài ở tốc độ 27 kn (50 km/h), và 4.000 m (4.400 yd) nếu phóng ở tốc độ 37 kn (69 km/h).[10]

Vỏ giáp

Những chiếc trong lớp Moltke được trang bị vỏ giáp cấu trúc bằng thép Krupp với mức độ bảo vệ được nâng cao hơn so với thiết kế của Von der Tann. Đai giáp chính dày cho đến 10 cm (3,9 in) ở phía trước mũi, lên đến 27 cm (11 in) ngang với phần thành trì rồi giảm còn 10 cm (3,9 in) phía đuôi. Tháp pháo ụ có lớp bảo vệ dày 10 cm (3,9 in) ở mặt đứng và 3,5 cm (1,4 in) trên nóc. Tháp chỉ huy phía trước được bảo vệ bởi lớp giáp dày 35 cm (14 in) trong khi tháp chỉ huy phía sau chỉ dày 20 cm (7,9 in). Các tháp pháo chính có mặt trước dày 23 cm (9,1 in), mặt hông dày 18 cm (7,1 in) và nóc dày 9 cm (3,5 in). Cả lớp giáp ngang lẫn lớp giáp nghiêng của sàn tàu đều dày 5 cm (2,0 in), cũng như phần vách ngăn chống ngư lôi chung quanh các bệ tháp pháo. Phần vách ngăn chống ngư lôi còn lại tại các vị trí ít quan trọng dày 3 cm (1,2 in).[3] Giống như chiếc Von der Tann, vỏ giáp của con tàu được làm bằng thép giáp Krupp.[9]